Về văn hóa Việt Nam và việc xây dựng nền văn hóa

Văn hóa việt nam là gì

Trong văn hóa tinh thần có văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể.

Có nhiều cội nguồn hình thành văn hóa Việt Nam: cội nguồn văn hóa huyền thoại thời Hùng Vương dựng nước, cội nguồn văn hóa cộng đồng các dân tộc

Từ đó Bác Hồ xác định rằng Con đường cứu nước và giải phóng dân tộc của Việt Nam là Con đường cứu nước và con đường giải phóng dân tộc của Việt Nam Sau cách mạng vô sản, cuốn “Con đường cách mạng” được xuất bản, trong đó chỉ rõ “cách mạng muốn thành công thì phải kết hôn với mọi người.” Sự bền bỉ đòi hỏi sự hy sinh và đoàn kết. Khai mở hai nguồn văn hóa mới là văn hóa Mác và văn hóa Hồ Chí Minh.

Về cội nguồn văn hóa của chủ nghĩa Mác, đây là sự vận dụng sáng tạo và vận dụng lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin của đảng ta vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, là công trình của Mác-Ăngghen và Lênin. số lượng sách, báo của chủ nghĩa Mác có nội dung phong phú, liên quan đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam hành động của đảng, văn hóa mácxít trở thành cội nguồn văn hóa chủ đạo của văn hóa Việt Nam. Cống hiến quan trọng nhất của văn hóa mácxít là góp phần xây dựng một phương pháp tư duy khoa học về thế giới, về lịch sử và tính duy lý của con người, hiện đại hóa nền văn hóa Việt Nam trong điều kiện kinh tế – xã hội của đất nước còn nhiều lạc hậu. Cùng với Đảng Cộng sản và lá cờ đỏ búa liềm, nền văn hóa mácxít đã khơi dậy ý thức về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân công nghiệp Việt Nam và sức mạnh to lớn của nhân dân. Công nhân trí thức Việt Nam trong quá trình đấu tranh, giữ gìn và xây dựng chính quyền đã nhận ra con đường đi ra thế giới cộng đồng cộng sản, nơi con người được sống thực sự như những con người.

Về cội nguồn văn hóa Hồ Chí Minh, ngày 11-2-1951, trong diễn văn khai mạc Đại hội lần thứ II Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng chí Đổng Đức Thắng khẳng định: Đường lối chính trị, tác phong, và công tác cách mạng và đạo đức của Đảng ta hiện nay là Đường lối, phong cách, đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh (2) . Hơn 20 năm sau ngày Bác mất, “Tư tưởng Hồ Chí Minh” đã được ghi nhận trong cương lĩnh của Đảng, chỉ đứng sau chủ nghĩa Mác-Lênin. Năm 1990, UNESCO đã trao tặng Hồ Chí Minh danh hiệu Nhà văn hóa kiệt xuất. Và Hồ Chí Minh thực sự tiêu biểu cho một cội nguồn văn hóa: văn hóa Hồ Chí Minh. Văn hóa Hồ Chí Minh là sự kết hợp hài hòa những nhân tố tích cực trong văn hóa truyền thống dân tộc với văn hóa tín ngưỡng, tinh hoa của văn hóa phương Đông và phương Tây, của văn hóa mác-xít, trở thành mạch nguồn văn hóa đặc sắc của văn hóa Việt Nam. Văn hóa Hồ Chí Minh là cội nguồn của văn hóa phát huy sự kết hợp sức mạnh đoàn kết dân tộc với sức mạnh thời đại, vì độc lập của Tổ quốc, vì tự do, hạnh phúc của nhân dân, vì bảo vệ môi trường tự nhiên, và cho người dân. Môi trường xã hội lành mạnh cho đời sống con người, giữ vững hòa bình, hữu nghị giữa các dân tộc và đoàn kết quốc tế, “Vô sản bốn phương là anh em…”. Thuộc về cội nguồn văn hóa TP.HCM có các sản phẩm văn hóa vật thể và phi vật thể: các tác phẩm hoàn chỉnh về Hồ Chí Minh, Lăng Bác Hồ, bảo tàng, di tích lịch sử văn hóa, sách báo về TP.HCM, ảnh, tượng đài, tượng đài trên khắp cả nước… “Di chúc của Người” là một tác phẩm văn hóa có giá trị. Cội nguồn văn hóa Hồ Chí Minh đã giúp dân tộc ta có tâm thế thượng tôn pháp luật khi đối mặt với các thế lực thực dân đế quốc xâm lược, có tinh thần tự hào, biết sống vinh và chết vinh. Văn hóa Hồ Chí Minh hướng dẫn chúng ta phải tu dưỡng, cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư trên con đường bảo vệ độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội với nhận thức “không có gì quý hơn độc lập, tự do”.

Về xây dựng nền văn hóa Việt Nam, cương lĩnh của Đảng hiện nay xác định rõ nhiệm vụ xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, giàu bản sắc dân tộc. Nâng cao là một khái niệm trái ngược với lỗi thời. Văn hóa của mỗi thời đại đều được cuộc sống con người chắt lọc để duy trì mặt tiên tiến và loại bỏ mặt lạc hậu. Trong Hội nghị liên chính phủ về chính sách văn hóa tổ chức tại Venice (Italy) năm 1970, F. May, nguyên Tổng Giám đốc UNESCO đã đề xuất một khái niệm chung và cụ thể về văn hóa, được cộng đồng quốc tế thừa nhận. Đó là “văn hóa bao gồm tất cả những gì làm cho dân tộc này khác với dân tộc khác, từ những sản phẩm hiện đại tiên tiến nhất đến tín ngưỡng, phong tục, tập quán, cách sống, cách lao động” (3) . Theo quan niệm này, văn hóa đương nhiên là một loại bản sắc dân tộc.

Văn hóa Việt Nam chúng ta luôn có tư tưởng tiến bộ và đậm đà bản sắc dân tộc. Tuyên bố: Trong cuộc chiến chống quân xâm lược Bắc Tống, “nước Nam là nơi ở của nước Nam” (nước phương Nam, nơi ở của vua phương Nam), là hiện thân của nền văn hóa tiên tiến của dân tộc. .Lời khuyên của vua Quảng Trung: “đánh nó long đầu”, “đánh nó răng đen” (Ta không muốn đồng hóa với quân cướp nhà Thanh) “đánh nó để đánh lại chứ không làm phản (đánh nó, xe chạy về nhà) nước không) dùng thất bại hoàn toàn (đánh đâu thắng đấy, thậm chí mất một quân cờ) để đánh cho ba quân sử, nước Nam anh hùng làm chủ” (Chiến sử nói: Nước Nam anh hùng làm chủ). Loại nhục đó cũng là biểu hiện của văn hóa dân tộc tiên tiến.

Trong chương trình này, sau khi chỉ rõ hai đặc điểm tất yếu của tiến bộ văn hóa và bản sắc dân tộc là đặc thù của xây dựng và phát triển văn hóa. Việt Nam đề ra tám phương hướng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội như sau:

– Một là, xây dựng một nước Việt Nam có nền văn hóa tiên tiến, mang đậm bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, đồng đều, có tính đa dạng và tinh thần nhân văn sâu sắc, dân chủ, tiến bộ;

– Thứ hai, kế thừa và phát huy truyền thống văn hóa tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, phục vụ lợi ích và lợi ích thiết thực. Phẩm giá con người, trình độ tri thức, đạo đức, thể lực, thẩm mỹ không ngừng được nâng cao.

– Ba là, phát triển và nâng cao chất lượng sáng tạo văn học, nghệ thuật; khẳng định và biểu dương các giá trị chân, thiện, mỹ, phê phán những cái lạc hậu, kém cỏi, phản bác những biểu hiện phản văn hóa.

-Thứ tư, bảo vệ quyền được biết. Quyền được thông tin, quyền tự do công dân và quyền sáng tạo.

– Thứ năm, phát triển các phương tiện thông tin đại chúng chân chính, đa nguyên, kịp thời và đồng bộ, hiện đại.

p>

– Thứ sáu, tôn trọng và bảo vệ quyền con người, kết hợp quyền con người với quyền và quyền Lợi ích quốc gia, dân tộc, nước là chủ… Xây dựng con người Việt Nam có tinh thần yêu nước, ý thức quyền làm chủ, ý thức trách nhiệm công dân Tổ quốc; có tri thức, sức khỏe, lao động tốt; sống có văn hóa, có nghĩa tình;

– Thứ bảy, xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc là một tế bào xã hội thực sự lành mạnh, một môi trường quan trọng và trực tiếp. Giáo dục thường xuyên để phát triển lối sống và nhân cách.

– Thứ tám, đơn vị sản xuất, công tác, học tập, chiến đấu phải trở thành một nền nếp, tác phong, kỹ thuật, năng suất và hiệu quả cao, bồi đắp tình hữu nghị, tình đồng chí, đồng đội, hình thành nhân cách và môi trường văn hóa Việt Nam.

Trong quá trình xây dựng và phát triển, phát triển văn hóa dân tộc cũng cần chú trọng hai mặt: một là nền tảng ngày càng bền vững, hai là đỉnh cao ngày càng cao. Nền tảng của văn hóa là nền tảng tri thức và trình độ văn hóa của nhân dân lao động. Đỉnh cao là những tài năng văn hóa, những tác phẩm có giá trị tư tưởng và nghệ thuật lớn trong lĩnh vực văn hóa, đưa nền văn hóa Việt Nam sánh vai với các nền văn hóa tiên tiến của các nước trên thế giới. thế giới.

(1) Hồ Chí Minh Toàn tập, tập II, tr 280, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội 2000. 27 (NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội 2005).

(3) Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam tập 4, tr. 798 (Nxb Từ điển bách khoa Hà Nội 2005).

.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *